Tên di sản : Phủ Cố (Phủ Cố đồng)
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : 4795/QĐ-UBND
Giới thiệu
Về quy mô cấu trúc hiện nay:
Phủ Cố được chính quyền địa phương, dòng họ Đỗ, họ Lê làng Bái Giao và khách thập phương đã đóng góp công sức xây dựng lại ngôi Phủ vào năm 2011 trên nền đất cũ, tọa lạc về hướng Nam nhìn ra cánh đồng Cồn Lội. Diện mạo của Phủ gồm: Phủ Chính có kiến trúc hình chữ Đinh (J) gồm nhà Tiền đường và Hậu cung, cổng Nghinh Môn, nhà Sắp lễ và Sân.
Theo thứ tự từ ngoài vào trong có các công trình sau:
Cổng: được xây kiểu Tam quan 3 tầng mái, gồm 01 cửa chính và 2 cửa phụ hai bên. Cửa chính (cửa giữa) có kích thước chiều rộng 1,93m, chiều cao 2,49m; hai cửa bên bằng nhau, có kích thước chiều rộng 0,83m, chiều cao 2,13m. Mái lợp ngói mũi, cánh cổng làm bằng sắt đóng mở dễ dàng. Phía trên cửa chính là hai tầng mái cong. Các góc mái ở tầng dưới đều được gắn kìm góc cách điệu; nóc mái xây vuông gắn kìm góc hai bên, ở giữa là hình mặt Nguyệt cách điệu. Hai cửa bên các góc mái cong gắn kìm góc. Ở phần cổ diêm mái trên và dưới ở cửa giữa đắp 2 chữ Hán “Phủ Cổ”.
Sân: có diện tích chiều dài 17,7m, chiều rộng 6,6m, mặt nền sân được lát bằng gạch bát màu đỏ có kích thước 30 x 30cm.
Phủ thờ: được cấu trúc theo kiểu chữ Đinh (J) gồm nhà Tiên đường và Hậu cung.
Nhà Tiền đường: là một ngôi nhà được cấu trúc gồm 3 gian 2 chái có kích thước chiều dài 11,2m, chiều rộng 7,9m. Phía ngoài gồm 4 mái, hai mái trước sau và hai mái diêm, cong ở bốn góc mái. Bờ dải từ mái diêm trở xuống góc mái được gắn ngói úp, từ mái diêm trở lên nóc mái được đắp vuông gờ chỉ. Bờ nóc hai bên đắp đấu trụ vuông gắn kìm nóc, đỉnh đấu gắn hình chim Phượng lật, giữa nóc là hình mặt Hổ phù ngậm chữ Thọ đầu đội mặt Nguyệt. Ở hai bên đầu hồi đắp hình hoa cúc cách điệu. Toàn bộ bản mái lợp ngói mũi hài.
Ở phía trong, hệ vì kèo được cấu trúc gồm 4 vì với 4 hàng chân cột, gồm 6 cột lớn và 6 cột quân tạo thành các bước gian.
Kích thước bước gian theo chiều dọc, tính từ trái sang phải như sau: Gian thứ 1 rộng: 2,3m; Gian thứ 2 (gian giữa) rộng: 2,6m; Gian thứ 3 rộng: 2,3m; Hai chái, mỗi bên rộng: 2m. Kích thước theo chiều ngang, tính từ ngoài vào: Từ cột Quân trước đến cột cái trước: 2,1m; Từ cột cái trước đến cột cái sau: 3,9m; Từ cột cái sau đến cột quân sau: 1m; Từ cột quân sau đến tường hậu: 0,90m. Kết cấu vì kèo được làm theo kiểu đăng đối: Vì 1 với vì 4; vì 2 với vì 3.
Vì kèo 2 và 3: Có cấu trúc giống nhau gồm quá giang liên kết với hai cột cái trong một vì. Ở phía trên là hệ thống kẻ chuyền (kẻ ngôi) liên kết với đấu trụ, mõm kẻ đỡ câu đầu; trên câu đầu lại có hệ thống đấu trụ (kiểu giá chiêng liên kết với kẻ ngồi. Ở trên cùng là hệ thống đấu bát đỡ guốc của Thượng lương. Ở phía dưới (t�� đầu c��t cái trở xuống) là hệ thống kẻ bẩy liên kết với cột cái và quá giang (mõm kẻ đỡ quá giang), vươn qua không gian hiên sau ăn mộng vào cột quân (ở mái sau) và cột quân (ở mái trước). Hai kẻ bẩy này chỉ khác nhau ở chỗ đuôi kẻ ở mái sau liên kết ở đầu cột quân, còn ở mái trước đuôi kẻ bẩy còn vươn dài hơn (khoảng 40cm) để làm nhiệm vụ đỡ tàu mái của ngôi nhà.
Vì 1 và vì 4: Từ phần đầu cột cái trở lên có cấu trúc giống hai vì 2 và 3 (như đã mô tả ở phần trên), chúng chỉ có khác nhau ở chỗ: từ cột cái trở xuống mái hiên không phải là hệ thống kẻ bẩy mà là hệ thống các con rường chồng lên nhau theo tỉ lệ ngắn dần về phía trên theo kết cấu của mái nhà. Ở vì này để tạo điểm giao giữa tường vì và tường hiện thành mái diêm còn có hệ thống kèo góc liên kết từ đầu cột cái chạy xuống góc cong của mái để tạo thành góc mái và mái diêm (ở cả 2 mái). Ngoài ra để đỡ mái diêm người thợ còn tạo ra các kèo mái chạy thẳng từ xà lòng xuống đường vỉ. Hệ thống và thượng, xà hạ, xà thế hoành làm nhiệm vụ liên kết các vì với nhau, tạo nên sự vững chắc của toàn bộ khung nhà.
Để tạo sự mềm mại, uyển chuyển của nội thất ngôi nhà, các cấu kiện kiến trúc đều được trang trí các đường gờ chỉ (ở hệ thống Kẻ chuyền, Rường, Xà, Quá giang, Câu đầu) và các Bát đấu trên đỡ Đấu trụ. Vật liệu làm nên bộ khung vì là bê tông cốt thép được sơn màu giả gỗ, tạo màu thời gian, làm cho ngôi nhà thêm ấm cúng linh thiêng.
Ngoài ra, để tạo không gian thoáng cho ngôi nhà, ở hai bên hồi còn được mở hệ thống cửa gồm 3 cửa ở mỗi bên đối xứng nhau, có cấu trúc hình vòm cuốn: cửa giữa (có kích thước chiều rộng 1,9m, chiều cao 2,5m), hai cửa bên (kích thước chiều rộng 0,91m, chiều cao 2,1m).
Hậu cung: nối thông nhà Tiền đường với Hậu cung là hệ thống 3 cửa để trống của nhà Tiền đường tương ứng với 3 cửa nhà Hậu cung. Các cửa nhà Hậu cung đều cấu trúc cuốn vòm có kích thước bằng nhau (kích thước chiều cao 1,99m, rộng 0,70m).
Hậu cung là một ngôi nhà có kích thước chiều dài 7,2m, chiều rộng 4,1m. Ở phía ngoài nhà cấu trúc theo kiểu giống dạng “Phương Đình” gồm hai tầng mái cong (mái dưới 4 mái, mái trên 4 mái). Các góc ở mái dưới và mái trên đều được gắn kìm góc, đỉnh mái trên gắn lưỡng long chầu Nguyệt; bờ dải, bờ nóc gắn ngói bò (còn gọi là ngói úp). Khoảng cách ngăn cách giữa mái trên và mái dưới là cổ diêm. Xung quanh bốn mặt của cổ diêm được mở các cửa kính hình chữ Nhật, nhằm tạo ánh sáng vào trong nhà. Ở phía trong toàn bộ nhà Hậu cung cấu trúc thành 01 gian lớn, không có vì kèo. Hệ mái ở mái trên và mái dưới đổ đặc bê tông cốt thép, dán ngói mũi ở phía trên. Nền nhà lát gạch hoa màu xanh. Nhà Hậu cung còn được mở hai cửa hậu để đi ra phía nhà Mộ và vườn phủ.
Nhà Mộ và Mộ: được xây sát liền kề với bức tường hậu và nhà Hậu cung, có kích thước chiều dài 2,99m, chiều rộng 2,29m, chiều cao 2,50m, có dáng hình trụ đứng. Cửa mộ mở về hướng đông, mái nhà mộ hai tầng lợp ngói, tầng trên tạo thành hình chóp (chóp mộ).
Ở phía trong Nhà Mộ là Mộ có kích thước vuông 4 mặt (1,30m x 4), chiều cao 0,90m, thành mộ xây gạch trát vữa xi măng, phía trong mộ là đất, trên đỉnh mộ đặt bát hương. Chủ nhân của ngôi mộ, theo các cụ già ở địa phương cho biết đó là Mộ của bà Đỗ Thị, hiệu là Diệu Huệ.
Nhà Sắp lễ: Nằm về phía Tây của Phủ tọa lạc hướng Nam, gồm 3 gian có kích thước: chiều dài 6,3m, chiều rộng lòng 5,2m, hiên rộng 1,8m. Các vì kèo làm bằng luông, đóng trần nhựa, mái nhà lợp Proximăng, nền nhà lát gạch bát màu đỏ.
Bài trí đồ thờ:
Hậu cung: ở chính giữa là nơi đặt bàn thờ Bà Đức thánh Diệu Huệ và Huy Khánh chân nhân quận phu nhân tôn thần, bệ thờ bằng gạch trát vữa xi măng gồm 2 cấp. Cấp thứ nhất (từ trên xuống) có kích thước chiều dài 1,63m, chiều rộng 1,05m, chiều cao 1,31m là nơi đặt ngai thờ và bài vị của Huy Khánh chân nhân quận phu nhân tôn thần; cấp thứ 2 có kích thước: chiều dài 1,63m, chiều rộng 0,76m, chiều cao 1,10m. Trên bệ thờ, là nơi đặt Long ngai và tượng thờ Đức Thánh Diệu Huệ. Trên bàn thờ còn đặt các đồ thờ như bát hương, khay mịch, hạc, chân nến, vv...và nhiều hiện vật khác.
Bàn thờ bên Tả: thờ Cô nhất Thủy cung, bệ thờ được xây bằng gạch, trát vôi vữa, xi măng có kích thước: chiều dài 1,01m, chiều rộng 0,51m, chiều cao 1,05m. Trên bệ thờ đặt Long ngai, trong Long ngai đặt tượng Cô Nhất thủy cung, phía ngoài đặt bát hương sứ.
Bàn thờ bên Hữu: thờ Cô Nhất Thượng Ngàn, bệ thờ xây bằng gạch, trát vôi vữa, xi măng, có kích thước: chiều dài 1,01m, chiều rộng 0,51m, chiều cao 1,05m. Trên bệ thờ đặt Long ngai, trong Long ngai đặt tượng Cô Nhất thượng ngàn, phía ngoài đặt bát hương sứ.
Nhà Tiền đường: Gian giữa là Ban thờ Hội đồng, đặt 01 hương án gỗ, có kích thước chiều dài 1,96m, chiều rộng 0,98m, chiều cao 1,31m; trên hương án đặt các đồ thờ như bát hương, mâm bồng, đài nước, chân nến v.v...và một số đồ tế khí khác.
Phía trên đư��c treo bức ��ại tự có nội dung “Pháp diệu Y thần”.